Bebeto |
Luật sư Hoàng Văn Thạch
1.
Không
thể ký hợp đồng lao động có thời hạn quá 24 tháng với lao động nước ngoài.
Hiện nay theo quy định
của Bộ luật lao động thì có các hình thức ký Hợp đồng lao động có thời hạn (tối
đa 36 tháng) hoặc ký HĐLĐ không xác định thời hạn đối với Người lao động. Quy định
này không giới hạn đối với lao động nước ngoài hay lao động trong nước. Tuy
nhiên đối với Lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thì thời hạn của
visa theo Luật xuất - nhập cảnh là 24 tháng và thời hạn của Giấy phép lao động
theo BLLĐ cũng là 24 tháng. Vậy có được ký hợp đồng lao động vượt quá 24 tháng
với Lao động nước ngoài không?
Theo Khoản 3 Điều 174
BLLĐ thì một trong các trường hợp Chấm dứt hiệu lực giấy phép lao động là “Nội dung của hợp đồng lao động không đúng với
nội dung của giấy phép lao động đã được cấp”. Điều này có nghĩa là Hợp đồng
lao động ký với lao động nước ngoài không được phép quá 24 tháng. Đối với trường
hợp xin GPLĐ lần đầu hoặc lần hai các doanh nghiệp có thể chủ động ngay từ ban
đầu về thời hạn hợp đồng khi ký hợp đồng với NLĐ nước ngoài. Nhưng cũng theo
BLLĐ thì nếu ký hợp đồng lao động xác định thời hạn thì chỉ được ký tối đa 02 lần,
nếu quá 02 lần thì buộc phải ký hợp đồng không xác định thời hạn nhưng GPLĐ khi
được cấp lại vẫn chỉ dừng ở mức tối đa 24 tháng. Do vậy để được cấp Giấy phép
lao động doanh nghiệp bắt buộc phải chấp nhận vi phạm quy định về ký đúng loại hợp
đồng lao động, tức là vẫn chỉ ký 24 tháng.
Chính sách của Việt
Nam là khuyến khích sử dụng lao động bản địa, việc sử dụng lao động nước ngoài
chỉ là tạm thời khi chưa đào tạo được lao động Việt Nam để thay thế. Do vậy việc
hạn chế ký Hợp đồng lao động không xác định thời hạn với NLĐ nước ngoài là cần
thiết. Tuy nhiên cần có hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện.
2.
Giấy phép hết hiệu lực, hợp đồng vẫn còn.
Theo quy định tại Điều
174 BLLĐ thì Hợp đồng lao động chấm dứt là một trong các trường hợp hết hiệu lực
của GPLĐ.
Tuy nhiên tại Điều 36
BLLĐ lại không quy định GPLĐ hết hiệu lực là một trong các điều kiện để Chấm dứt
hợp đồng lao động. Điều này dẫn đến trường hợp vì lý do nào đó mà một trong các
căn cứ để cấp GPLĐ là Hợp đồng trong lĩnh
vực kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học kỹ thuật, văn
hoá, thể thao, giáo dục, y tế chấm dứt trước thời hạn. Khi đó theo quy định GPLĐ sẽ hết
hiệu lực. Nhưng đây lại không phải
là căn cứ để chấm dứt Hợp đồng lao động. Điều này dẫn đến những rắc rối, phức tạp
trong việc xử lý mối quan hệ giũa Người lao động và Chủ sử dụng lao động.
3.
Quy
định dài dòng về các trường hợp hết hiệu lực của GPLĐ
Tại Điều 174 BLLĐ liệt
kê 07 trường hợp Giấy phép lao động hết hiệu lực gồm:
“1. Giấy phép lao động hết thời hạn.
2. Chấm dứt hợp đồng lao động.
3. Nội dung của hợp đồng lao động không đúng với nội dung
của giấy phép lao động đã được cấp.
4. Hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học kỹ thuật, văn hoá, thể thao, giáo dục, y
tế hết thời hạn hoặc chấm dứt.
5. Có văn bản thông báo của phía nước ngoài thôi cử lao
động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
6. Giấy phép lao
động bị thu hồi.
7. Doanh nghiệp, tổ chức, đối tác phía Việt Nam hoặc tổ
chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam chấm dứt hoạt động.
8. Người lao động là công dân nước ngoài bị phạt tù giam,
chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết, mất tích.”
Tuy nhiên tại Điều 17 Nghị định
102/2013/NĐ-CP quy định về các trường hợp thu hồi GPLĐ thì có thể nhận thấy
trường hợp 1, 2 ,3 ,4 ,5 ,7 ,8 nêu trên đều thuộc trường hợp 6 (GPLĐ bị thu
hồi). Như vậy vể bản chất Giấy phép lao động hết hiệu lực khi Giấy phép lao
động bị thu hồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét