Gabriel Batistuta in Fiorentina |
Luật sư: Hoàng Văn Thạch
Mới đây sự việc người mẫu Trang Trần bị bắt vì có hành vi chống người thi
hành công Vấn đề này có nhiều luật sư đã lên tiếng, có nhiều người cho rằng
cần xử lý hình sự nhưng cũng có người cho rằng chỉ nên xử lý hành chính.
Vậy hành vi chống người thi hành công vụ là những hành vi
gì? Và khi nào nó bị xử lý hình sự, khi nào thì xử phạt vi phạm hành chính; nếu
xử lý hình sự thì xử lý về tội gì. Bài viết dưới đây giới thiệu quy định của
pháp luật về việc xử lý đối với hành vi này.
1.
Thế
nào là hành vi chống người thi hành công vụ?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 208/2013/NĐ-CP
hướng dẫn về các biện pháp phòng ngữa, ngăn chặn người chống người thi hành
công vụ thì “Hành vi chống người thi hành công vụ là
hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ
hoặc có hành vi khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ
được giao hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao”. Nội hàm của khái niệm này cũng phù hợp với quy định tại
Khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự 1999 “Người
nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi
hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi
trái pháp luật, thì bị…”
Như vậy có thể hiểu hành vi chống người thi hành công vụ là
bất kỳ hành vi nào nhằm mục đích cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm
vụ được giao hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được
giao.
2.
Khi
nào hành vi chống người thi hành công vụ bị xử phạt hành chính, khi nào bị xử
lý hình sự?
Về chế tài xử lý hình sự đã được quy định tại Điều 257 BLHS.
Theo quy định tại điều này thì chỉ cần người nào có một trong các hành vi: Dùng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác và nhằm mục đích là nhằm cản trở người thì
hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép người thi hành công vụ không
thực hiện nhiệm vụ được giao thì đều có thể bị xử lý hình sự mà không cần quan
tâm đến hậu quả.
Về chế tài hành chính. Điều 20 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy
định:
“Điều 20. Hành
vi cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành
công vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ
1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành
vi môi giới, tiếp tay, chỉ dẫn cho cá nhân, tổ chức vi
phạm trốn tránh việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ.
2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với
một trong các hành vi sau đây:
a) Cản trở hoặc không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát của người thi hành công vụ;
b) Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm người thi hành công vụ;
c) Xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác không
chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ.
3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với
một trong những hành vi sau đây:
a) Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống người thi
hành công vụ;
b) Gây thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà
nước, của người thi hành công vụ;
c) Đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác cho người
thi hành công vụ để trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính.”
(trước đây các hành vi này được quy định tại Nghị định
71/2010/NĐ-CP)
Thứ nhất: nhìn vào Điều 20 Nghị định 167 chúng ta có thể
tham khảo “thủ đoạn khác” được quy định tại Điều 267 BLHS gồm những thủ đoạn
gì: môi giới, tiếp tay, chỉ dẫn cho đối tượng vi phạm trốn tránh việc thanh
tra, kiểm tra, kiểm soát; có hành vi đe dọa, xúc phạm người thi hành công vụ;
xâm phạm tài sản của người thi hành công vụ…ngoài ra "vu khống người thi
hành công vụ" cũng có thể coi là một "thủ đoạn khác”.
Thứ hai: Tất cả những hành vi được nhắc đến tại Khoản 1 Điều
257 đều có tại Điều 20 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.
Như vậy có thể thấy hành vi chống người thi hành công vụ ở
mức độ nào đó nó sẽ bị xử lý hành chính, ở mức độ cao hơn sẽ bị xử lý hình sự.
Tuy nhiên việc nhìn nhận tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi chống người
thi hành công vụ ở mức cao (để xử lý hình sự) hay mức độ thấp (để xử lý hành
chính) thì không có bất cứ văn bản nào quy định cụ thể. Điều này dẫn đến việc
tùy tiện của cơ quan chức năng khi xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.
Và theo như thống kê của Bộ công an trong tờ trình Dự thảo Nghị định ác biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và
xử lý hành vi chống người thi hành công vụ cho thấy thống kê từ năm 2002 –
2012 “cả nước đã xảy ra 8.513 vụ, với
13.706 đối tượng vi phạm, trong đó, số vụ việc xử lý hình sự là 6.882 với
11.131 đối tượng; số vụ việc xử lý hành chính là 1.594 với 2.811 đối tượng”
à Tỷ lệ xử lý hình sự cao gấp khoảng 4,5 lần xử lý hành chính
trong khi thông thường một hành vi nếu có cả chế tài hình sự, cả chế tài hành
chính thì tỷ lệ xử lý hành chính sẽ nhiều hơn xử lý hình sự. Việc xử lý hình sự
nhiều có thể một phần đến từ việc các hành vi này có đối tượng tác động chủ yếu
à cơ quan công an.
3. Kiến nghị hướng
dẫn việc xử lý người chống người thi hành công vụ.
Trong tình trạng chưa có quy định cụ thể về việc khi nà xử
lý hình sự, khi nào xử lý hành chính đối với hành vi chống người thi hành công
vụ thì các cơ quan quản lý Nhà nước cần sớm có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.
Qua thực tiễn hành nghề tôi có đề xuất:
Chỉ xử lý hình sự khi:
-
Hành vi chống người thi hành công vụ
có hậu quả là làm cản trở hoạt động công vụ.
-
Hành vi chống người thi hành công vụ
tuy chưa làm cản trở hoạt động công vụ nhưng người thi hành công vụ đã giải
thích và yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi chống người thi hành công vụ,
đã tiến hành cưỡng chế người vi phạm nhưng người vi phạm vẫn tiếp tục có những
hành vi chống người thi hành công vụ.
Nếu chưa có một trong hai tình tiết
trên thì chỉ xử lý hành chính người vi phạm theo quy định của Nghị định 167/2013/NĐ-CP.
3. Hành vi chống người thi hành công vụ
có thể bị xử lý hình sự về tội danh khác mà không phải tội “chống người thi
hành công vụ”.
-
Đối với hành vi xúc phạm danh dự,
nhân phẩm người thi hành công vụ nếu ở mức độ nhẹ thì xử lý hành chính; mức độ
nặng thì xử lý hình sự về tội “làm nhục người khác” hoặc tội “vu khống” theo
quy định tại Điều 121, 122 BLHS với tình tiết định khung là phạm tội “đối với
người thi hành công vụ” (không xử lý về tội “chống người thi hành công vụ”)
-
Hành vi đưa tiền cho người thi hành
công vụ hoặc xâm phạm tài sản của người thi hành công vụ nếu số tiền hoặc thiệt
hại có giá trị từ 2.000.000 VNĐ trở lên sẽ bị lý hình sự về tội “hủy hoai hoặc
làm hư hỏng tài sản người khác” hoặc tội “đưa hối lộ” theo các Điều 144, 279
BLHS.
-
Hành vi xâm phạm sức khỏe của người
thi hành công vụ nếu gây ra thương tích sẽ bị xử lý hình sự về tội “cố ý gây
thương tích” theo quy định tại Điểm K khoản 1 Điều 104 BLHS.
-
….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét