Luật sư Hoàng Văn Thạch
Trong các văn bản pháp luật chúng ta gặp rất nhiều cụm từ “công chứng hoặc chứng thực”, ví dụ như Luật đất đai 2013 tại Điều 167 quy định “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực” vậy thì công chứng một giao dịch và chứng thực một giao dịch bản chất khác gì nhau như thế nào?.
Để phân biệt công chứng giao dịch và chứng
thực giao dịch thì trước tiên cần lưu ý:
Một là: Nhiều văn bản pháp luật hay dẫn
một câu dài là “chứng thực hợp đồng, giao dịch” và “công chứng hợp đồng, giao dịch”.
Viết như vậy dễ dẫn đến hiểu lầm “hợp đồng” và “giao dich” là khác nhau nhưng
thực chất “hợp đồng” cũng là một loại “giao dịch” nên bài viết này chỉ viết tắt
là “công chứng giao dịch” và “chứng thực giao dịch”.
Hai là: Ngoài khái niệm “chứng thực
giao dich” thì còn có “chứng thực chữ ký” (tức cơ quan thẩm quyền xác nhận chữ
ký nào đó là của một người cụ thể) và “chứng thực bản sao” (tức cơ quan thẩm
quyền xác nhận bản sao giống với bản chính).
Bài viết chỉ phân biệt hai khái niệm gần nghĩa là chứng thực giao dịch
và công chứng giao dịch.
Trên mạng, thậm chí cả website của Bộ
tư pháp có rất bài viết phân biệt hai khái niệm này với các tiêu chí so sánh
như: thủ tục, phí, thẩm quyền…tuy vậy đây chỉ là bề ngoài, nó không giúp người
đọc hiểu một cách rõ nghĩa và sẽ quay lại câu hỏi là tại sao nó lại khác nhau về
thủ tục, tại sao lại khác nhau về thẩm quyền. Mới đây báo điện từ sggp.vn còn
có loạt bài phản ánh về biến tướng hoạt động công chứng (link:
http://www.sggp.org.vn/bien-tuong-hoat-dong-cong-chung-bai-2-doc-quyen-mot-buoc-lui-trong-cai-cach-hanh-chinh-532498.html). Trong đó bài viết cho rằng việc các
địa phương yêu cầu các UBND phường/xã không chứng thực giao dịch nữa mà chuyển
việc đó sang cho các VPCC (văn phòng công chứng) trên địa bàn là hành vi làm mất
tính cạnh tranh, tạo độc quyền cho các VPCC khiến người dân mất đi quyền lựa chọn
và nghi ngờ có lợi ích nhóm trong việc này. Vậy việc yêu cầu UBND phường/xã
chuyển việc chứng thực giao dịch cho VPCC có phải là một quy định không tốt, tạo
độc quyền cho các VPCC. Bài bào chưa phân tích được sự khác nhau của hai hoạt động
này để thấy được mặt tích cực của việc công chứng giao dịch thay vì chỉ chứng
thực.
Bản chất việc công chứng giao dịch
và chứng thực giao dịch là 02 thủ tục hoàn toàn khác nhau. Trong đó chứng thực
giao dịch là việc cơ quan có thẩm quyền xác nhận về về thời gian, địa điểm giao
kết giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm
chỉ của các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên nội dung trong giao dịch đó có hợp
pháp hay không thì cán bộ chứng thực không xác nhận (tất nhiên trên thực tế
trong khả năng và hiểu biết của mình, nến cán bộ làm công tác chứng thực phát
hiện giao dịch đó trái pháp luật họ cũng sẽ không chứng thực). Ngược lại công
chứng giao dịch thì công chứng viên ngoài việc xác nhận thời gian, địa điểm của
giao dịch còn phải xác nhận tính hợp pháp của giao dịch đó. Có nghĩa là công chứng
viên phải chắc chắn giao dịch đó là hợp pháp mới công chứng.
Ví dụ: A góp vốn hợp tác với B một mảnh
đất để cùng kinh doanh; trong nội dung hợp đồng chuyển nhượng ngoài các điều
khoản cơ bản như thông tin của các bên, thông tin đất và giá bán thì họ còn thỏa
thuận thêm về các điều khoản phạt vi phạm, điều khoản bồi thường thiệt hại, điều
khoản bảo mật, điều khoản bất khả kháng, điều khoản phân chia lợi nhuận … những
nội dung này cán bộ tư pháp làm công tác chứng thực khó có thể biết được họ thỏa
thuận như vậy có hợp pháp hay không. Tuy nhiên, pháp luật không bắt họ phải xác
nhận nó có hợp pháp hay không mà chỉ chứng thực thời gian, địa điểm, năng lực
hành vi và ý chí của các bên là ok. Ngược lại công chứng một giao dịch như vậy
thì công chứng viên buộc phải nghiên cứu kỹ từng thỏa thuận trong hợp đồng để
xem giao dịch đó có hợp pháp hay không, điều này đòi hỏi công chứng viên phải
có kiến thức pháp lý khá vững, nếu không chắc chắn thì phải từ chối công chứng.
Còn nếu chắc chắn là hợp pháp thì Công chứng viên sẽ xác nhận giao dịch đó là hợp
pháp. Trên thực tế nhiều công chứng viên không đủ kiến thức để chắc chắn toàn bộ
nội dung giao dịch đó có hợp pháp hay không nên hoặc họ từ chối hoặc họ yêu cầu
các bên làm đơn giản để được công chứng, còn các nội dung phức tạp khác họ sẽ
hướng dẫn các bên thỏa thuận bên ngoài, bằng phụ lục khác…vv
Vậy đó, bản chất nó khác nhau là như
vậy. Vì nó khác nhau về bản chất dẫn đến thủ tục, thẩm quyền, phí cũng khác
nhau. Khi một giao dịch được một công chứng viên thẩm định và xác nhận nó là hợp
pháp thì nó sẽ hạn chế tranh chấp về sau hơn so với một giao dịch chỉ được UBND
phường chứng thực về thời gian, địa điểm, năng lực và ý chí của các bên. Đôi
khi tranh chấp đó không chỉ là việc riêng của hai bên mà còn ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của bên thứ ba, gây tốn kém thời gian công sức cho cơ quan Nhà nước
khi đứng ra giải quyết tranh chấp cho các bên…. Ở góc độ này công chứng giống
như một tấm lọc để hạn chế những thỏa thuận bất hợp pháp giữa các bên.
Do vậy, theo tôi đó là lý do chính dẫn
đến việc tại Nghị định 88/2009/NĐ-CP Chính phủ yêu cầu các huyện đã có Văn
phòng công chứng thì UBND phường/xã không chứng thực giao dịch nữa mà chuyển
cho VPCC để công chứng giao dịch. Nó sẽ giúp cho xã hội ổn định hơn, người dân
cũng yên tâm hơn trong các giao dịch của mình. Theo tôi nếu cứ để cho UBND
xã/phường tiếp tục công việc đó thì người dân có xu hướng chọn UBND xã/phường
vì tiện, gần, phí rẻ, và đôi khi giúp họ hợp pháp hóa một giao dịch mà họ biết
là không hợp pháp, nếu đửa ra công chứng sẽ không ai làm…. Do vậy việc chuyển
chứng thực giao dịch tại UBND xã/phường về cho các VPCC công chứng giao dịch là
một chủ trương theo tôi đúng và hợp lý. Tuy nhiên đến nay Nghị định
88/2009/NĐ-CP đã hết hiệu lực, các văn bản thay thế không có quy định này, do vậy
việc các địa phương tiếp tục yêu cầu UBND phường/xã chuyển giao việc chứng thực
giao dịch cho các VPCC là không có căn cứ pháp lý.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét