28 tháng 2, 2015

Chống Người Thi Hành Công Vụ Bị Xử Lý Như Thế Nào?


Gabriel Batistuta in Fiorentina
Luật sư: Hoàng Văn Thạch

Mới đây sự việc người mẫu Trang Trần bị bắt vì có hành vi chống người thi hành công Vấn đề này có nhiều luật sư đã lên tiếng, có nhiều người cho rằng cần xử lý hình sự nhưng cũng có người cho rằng chỉ nên xử lý hành chính.
Vậy hành vi chống người thi hành công vụ là những hành vi gì? Và khi nào nó bị xử lý hình sự, khi nào thì xử phạt vi phạm hành chính; nếu xử lý hình sự thì xử lý về tội gì. Bài viết dưới đây giới thiệu quy định của pháp luật về việc xử lý đối với hành vi này.

1.            Thế nào là hành vi chống người thi hành công vụ?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 208/2013/NĐ-CP hướng dẫn về các biện pháp phòng ngữa, ngăn chặn người chống người thi hành công vụ thì “Hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao”. Nội hàm của khái niệm này cũng phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự 1999 “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc  họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị…”
Như vậy có thể hiểu hành vi chống người thi hành công vụ là bất kỳ hành vi nào nhằm mục đích cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao.

2.            Khi nào hành vi chống người thi hành công vụ bị xử phạt hành chính, khi nào bị xử lý hình sự?
Về chế tài xử lý hình sự đã được quy định tại Điều 257 BLHS. Theo quy định tại điều này thì chỉ cần người nào có một trong các hành vi: Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác  và nhằm mục đích là nhằm cản trở người thì hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao thì đều có thể bị xử lý hình sự mà không cần quan tâm đến hậu quả.
Về chế tài hành chính. Điều 20 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định:
Điều 20. Hành vi cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ
1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi môi giới, tiếp tay, chỉ dẫn cho cá nhân, tổ chức vi phạm trốn tránh việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ.
2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cản trở hoặc không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ;
b) Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ;
c) Xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ.
3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành công vụ;
b) Gây thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ;
c) Đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác cho người thi hành công vụ để trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính.
(trước đây các hành vi này được quy định tại Nghị định 71/2010/NĐ-CP)
Thứ nhất: nhìn vào Điều 20 Nghị định 167 chúng ta có thể tham khảo “thủ đoạn khác” được quy định tại Điều 267 BLHS gồm những thủ đoạn gì: môi giới, tiếp tay, chỉ dẫn cho đối tượng vi phạm trốn tránh việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát; có hành vi đe dọa, xúc phạm người thi hành công vụ; xâm phạm tài sản của người thi hành công vụ…ngoài ra "vu khống người thi hành công vụ" cũng có thể coi là một "thủ đoạn khác”.

Thứ hai: Tất cả những hành vi được nhắc đến tại Khoản 1 Điều 257 đều có tại Điều 20 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

Như vậy có thể thấy hành vi chống người thi hành công vụ ở mức độ nào đó nó sẽ bị xử lý hành chính, ở mức độ cao hơn sẽ bị xử lý hình sự. Tuy nhiên việc nhìn nhận tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi chống người thi hành công vụ ở mức cao (để xử lý hình sự) hay mức độ thấp (để xử lý hành chính) thì không có bất cứ văn bản nào quy định cụ thể. Điều này dẫn đến việc tùy tiện của cơ quan chức năng khi xử lý hành vi chống người thi hành công vụ. Và theo như thống kê của Bộ công an trong tờ trình Dự thảo Nghị định ác biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chng người thi hành công vụ cho thấy thống kê từ năm 2002 – 2012 “cả nước đã xảy ra 8.513 vụ, với 13.706 đối tượng vi phạm, trong đó, số vụ việc xử lý hình sự là 6.882 với 11.131 đối tượng; số vụ việc xử lý hành chính là 1.594 với 2.811 đối tượngà Tỷ lệ xử lý hình sự cao gấp khoảng 4,5 lần xử lý hành chính trong khi thông thường một hành vi nếu có cả chế tài hình sự, cả chế tài hành chính thì tỷ lệ xử lý hành chính sẽ nhiều hơn xử lý hình sự. Việc xử lý hình sự nhiều có thể một phần đến từ việc các hành vi này có đối tượng tác động chủ yếu à cơ quan công an.

3. Kiến nghị hướng dẫn việc xử lý người chống người thi hành công vụ.
Trong tình trạng chưa có quy định cụ thể về việc khi nà xử lý hình sự, khi nào xử lý hành chính đối với hành vi chống người thi hành công vụ thì các cơ quan quản lý Nhà nước cần sớm có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.
Qua thực tiễn hành nghề tôi có đề xuất:
Chỉ xử lý hình sự khi:
-         Hành vi chống người thi hành công vụ có hậu quả là làm cản trở hoạt động công vụ.
-         Hành vi chống người thi hành công vụ tuy chưa làm cản trở hoạt động công vụ nhưng người thi hành công vụ đã giải thích và yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi chống người thi hành công vụ, đã tiến hành cưỡng chế người vi phạm nhưng người vi phạm vẫn tiếp tục có những hành vi chống người thi hành công vụ.
Nếu chưa có một trong hai tình tiết trên thì chỉ xử lý hành chính người vi phạm theo quy định của Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

3.      Hành vi chống người thi hành công vụ có thể bị xử lý hình sự về tội danh khác mà không phải tội “chống người thi hành công vụ”.
-         Đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ nếu ở mức độ nhẹ thì xử lý hành chính; mức độ nặng thì xử lý hình sự về tội “làm nhục người khác” hoặc tội “vu khống” theo quy định tại Điều 121, 122 BLHS với tình tiết định khung là phạm tội “đối với người thi hành công vụ” (không xử lý về tội “chống người thi hành công vụ”)
-         Hành vi đưa tiền cho người thi hành công vụ hoặc xâm phạm tài sản của người thi hành công vụ nếu số tiền hoặc thiệt hại có giá trị từ 2.000.000 VNĐ trở lên sẽ bị lý hình sự về tội “hủy hoai hoặc làm hư hỏng tài sản người khác” hoặc tội “đưa hối lộ” theo các Điều 144, 279 BLHS.
-         Hành vi xâm phạm sức khỏe của người thi hành công vụ nếu gây ra thương tích sẽ bị xử lý hình sự về tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điểm K khoản 1 Điều 104 BLHS.
-         ….

13 tháng 2, 2015

Bị Cáo Vô Tội!


Roberto Bagio in USA 1994

Luật sư Hoàng Văn Thạch
Hôm qua tôi đọc một bài báo của Luật sư kỳ cựu tên Ng đăng trên báo điện tử Pháp luật Tp HCM số ra 12.02.2014. Nội dung bài báo khá lạ vì nó nói về sự thân thiện giữa Luật sư Ng với Viện kiểm sát và Tòa án – một điều hiếm thấ trong các vụ án hình sự mà Luật sư đóng vai người bào chữa cho bị cáo. Nội dung bài báo sẽ là rất hay nếu chúng ta bỏ qua yếu tố chuyên môn. Khi tôi đọc đến phần gần kết thì giật mình vì hình như CÓ ĐIỀU GÌ ĐÓ KHÔNG ỔN – tôi đã phải đọc đi đọc lại một quy định nhiều lần để chức điều mình sắp nói ra là đúng. Tôi search tên Luật sư Ng trên Facebook và thấy Luật sư Ng đang khá vui vẻ vì kết quả vụ án.
Tôi không có ý khoe mẻ kiến thức hay “múa rìu qua mắt thợ” và nếu ở vị trí của Ls Ng tôi chưa chắc đã thành công như Luật sư Ng. Nhưng vì đây là một tình huống khá đặc biệt - ảnh hưởng đến tình trạng pháp lý của một con người – cũng là dịp để nghiên cứu pháp lý nên tôi sẽ nói quan điểm của mình về điều không ổn ở đây là gì?
Nội dung vụ án kể về việc anh tài xế Dương Thanh Long là lái xe khách chạy đường dài cho một doanh nghiệp vận tải. Trong một lần do mệt nên Long đã giao xe cho phụ xe là Nguyễn Thành Lợi điều khiển. Lợi sau đó gây tai nạn và bị xử lý về Lợi bị truy tố tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 BLHS). Còn Long do giao xe cho Lợi khi mà Lợi chưa có giấy phép lái xe nên  bị truy tố tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ (Điều 205 BLHS).
Vị luật sư khi thuật lại câu chuyện trên báo đã viết:
“Phần tranh luận, tôi đưa ra bốn tình tiết giảm nhẹ cho Long (tương ứng với điểm b, h, p và e khoản 1 Điều 46 BLHS), trong đó có tình tiết phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do tự mình gây ra (điểm e khoản 1 Điều 46 BLHS), tức phạm tội do lỗi vô ý. Tòa để cho luật sư và KSV tranh luận thoải mái, không giới hạn thời gian. (Không khí tranh luận sôi nổi đến mức tôi đã… rời khỏi bàn, đứng trước HĐXX, gần bàn KSV để tranh luận lúc nào không hay!)
KSV đã bác bỏ điểm e khoản 1 Điều 46 vì cho rằng bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Tôi bảo lưu quan điểm và lưu ý HĐXX xem xét áp dụng quy định tại khoản 7 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2013 và Nghị quyết 01/2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao. Theo đó, giao xe cho người không có giấy phép hoặc bằng lái điều khiển phương tiện giao thông là việc người có quyền quản lý phương tiện giao thông biết một người không có giấy phép hoặc bằng lái nhưng vẫn giao cho người đó điều khiển. Rõ ràng theo hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi thì LONG HOÀN TOÀN KHÔNG BIẾT Lợi không có bằng lái ô tô và Lợi cũng nhận thức rằng Long không biết mình không có bằng lá…..
Do Long đã bị tạm giam hơn ba tháng nên tôi đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ và trả tự do cho Long tại tòa…..
Sau khi cân nhắc, xem xét tình lý, HĐXX đã tuyên phạt Lợi sáu tháng tù giam, Long ba tháng 16 ngày tù. Do thời hạn tù bằng đúng thời hạn tạm giam nên Long được trả tự do ngay tại phiên tòa….
Vậy là một mùa đông dài đã qua với thân chủ tôi - bị cáo Nguyễn Thanh Long. Hiện Long đang cùng gia đình chuẩn bị đón một cái tết sum vầy.”
Như vậy có thể thấy định hướng bào chữa của Luật sư Ng trong vụ án này cho bị cáo Long là xin giảm nhẹ, đồng nghĩa với việc anh ta có tội. Đặc biệt trong đó Ls tập trung chứng minh Long không biết Lợi không có giấy phép lái xe để chứng minh Long được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm e Khoản 1 Điều 46 BLHS. Và có vẻ như quan điểm đó đã thuyết phục được HĐXX và VKS.
Tuy nhiên chúng ta hãy xem Điều 205 BLHS quy định như thế nào:
Người nào điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến ba năm.”
Trong đó “điều động” là áp dụng cho người có chức vụ, quyền hạn nên không thuộc trường hợp của Long.
Trường hợp này Long bị truy tố về Điều 205 BLHS vì “giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông…”.
Hướng dẫn về khái niệm này Khoản 7 Điều 1 Thông tư 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định như sau “Giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật chỉ huy hoặc điều khiển các phương tiện giao thông là việc người có quyền quản lý phương tiện giao thông BIẾT một người không có giấy phép hoặc bằng lái hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật nhưng vẫn giao cho người đó chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện giao thông.” – Như vậy tội danh này là lỗi cố ý, nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không chứng minh được Long biết Lợi không có giấy phép lái xe mà vẫn giao xe thì đương nhiên Long vô tội. 
Nhưng thật đáng tiếc Luật sư Ng có lẽ do sơ xuất lại xử lý tình huống chưa thực sự tốt cho thân chủ. Thay vì chứng minh anh ta vô tội Luật sư Ng đã sử dụng tình tiết này làm yếu tố chứng minh một tình tiết giảm nhẹ - cũng có nghĩa là đồng tình với Viện kiểm sát về việc truy tố anh Long là đúng.
Anh Long cũng đã không phải ở tù – có lẽ đó là điều anh ta mong muốn. Nhưng công lý vẫn là công lý. Thực sự anh ta vô tội.
Vụ án này cả Bị Cáo - Luật sư – Tòa án – Viện kiểm sát đều rất vui vẻ với nhau. Tòa án thì nhẹ đầu, Luật sư thì được việc, Viện kiểm sát thì mừng thầm, Bị cáo thì vỡ òa hạnh phúc vì không ở tù là may rồi


(Nguồn bài báo của Luật sư Ng: