Trương Thị Thu Hiền |
Luật
sư Hoàng Văn Thạch
Trong hoạt động của các Doanh nghiệp
việc không sử dụng hết nhà văn phòng hoặc nhà xưởng là điều bình thường, nhất
là trong thời buổi kinh tế khó khăn. Vì vậy nhu cầu cho thuê lại một phần tòa
nhà làm việc hoặc nhà xưởng trong thời gian vừa qua là rất phổ biến. Tuy nhiên
việc cho thuê lại tài sản này có được phép hay không? Cần phải đảm bảo điều
kiện gì?
Tài sản xây trên đất thuê trả tiền
hàng năm thì không được phép cho thuê lại?
Trước tiên nói về việc pháp luật cho phép doanh nghiệp được cho
thuê lại tài sản đó không. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào doanh nghiệp đang
sử dụng đất dưới hình thức gì?
Trước đây khi Luật đất đai 2003 quy định tổ chức kinh tế sử
dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc sử dụng đất dưới
hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc thuê đất trả tiền cho toàn
bộ thời gian thuê (tiền không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước) thì đều có
quyền cho thuê tài sản đã đầu tư trên đất. Tuy nhiên một hình thức sử dụng đất
rất phổ biết của các tổ chức kinh tế hiện nay là thuê đất trả tiền hàng năm thì
trong Luật đất đai 2003 không liệt kê quyền được cho thuê lại tài sản trên đất
(nhưng lại có quyền chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp).
Có lẻ do bất cập này mà 03 năm sau khi Luật đất đai 2003 có
hiệu lực thi hành thì Nghị định 84/2007/NĐ-CP mới bổ sung quyền được cho thuê
lại tài sản trên đất đối với tổ chức kinh tế sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm
(Điều 22), đây được coi như là một “phụ lục” để bổ sung cho những quyền còn
chưa được ghi nhận tại Luật đất đai 2003. Quy định đã rõ như vậy nhưng trên
thực tế khi tiếp xúc với một số chuyên viên cơ quan Tài nguyên & Môi trường,
Thuế quan điểm của họ vẫn không thừa nhận việc quyền cho thuê lại tài sản trên
đất thuê trả tiền hàng năm và coi đây là hành vi sử dụng đất sai mục đích đề hù
dọa doanh nghiệp. Khi viện dẫn Điều 22 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì cơ quan Nhà
nước cho rằng chưa có hướng dẫn cụ thể nên không dám triển khai và thực tế ngay
cả ngành Tòa án cúng có suy nghĩ tương tự. Trong một bản án kinh doanh thương
mại người viết từng tham gia ở cả cấp Sơ thẩm tại TAND tỉnh Nghệ An và Phúc
thẩm tại TAND Tối Cao đều xác định việc cho thuê lại tài sản trên đất là trái mục
đích sử dụng mà không hề xem xét hay giải thích được quy định tại Điều 22 Nghị
định 84/2007/NĐ-CP.
Những tưởng quyền này sẽ được bổ sung khi Luật đất đai 2003
được thay thế tuy nhiên theo Luật đất đai 2013 quyền cho thuê lại tài sản trên
đất thuê trả tiền hàng năm vẫn t không được ghi nhận và Nghị định 43/2014/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013 và thay thế Nghị định 84/2007/NĐ-CP cũng
không kế thừa quy định này, chỉ nhắc đến quyền góp vốn, thế chấp và bán tài sản
trên đất. Điều này khiến quyền cho thuê lại tài sản trên đất đã đầu tư của tổ
chức kinh tế sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm trở nên không có cơ sở pháp lý.
Vì vậy hàng loạt giao dịch cho thuê lại văn phòng và nhà xưởng hay bất kỳ một
công trình trên đất nào của các tổ chức sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm đang
trong tình trạng không rõ ràng về tính pháp lý.
Điều kiện về ngành nghề để cho thuê
lại nhà xưởng và văn phòng dư thừa.
Ngoài điều kiện về hình thức sử dụng đất còn một điều kiện
khác nữa chưa thực sự rõ ràng khi một tổ chức kinh tế cho thuê lại tài sản trên
đất đó là điều kiện về ngành nghề kinh doanh. Câu hỏi có nhất thiết phải bổ
sung nghành nghề kinh doanh bất động sản thì mới được cho thuê lại nhà xưởng,
văn phòng dư thừa hay không cũng nhận được những câu trả lời rất mâu thuẫn.
Năm 2007 cả Bộ xây dựng và Bộ kế hoạch đầu tư khi ban hành
các công văn số 2533/BXD-QLN ngày 28.11.2007 do Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam ký và
Công văn số 7269/BKH-KCN&KCX ngày 05.10.2007 trả lời về việc cho thuê lại
nhà xưởng, văn phòng dư thừa trong Khu công nghiệp đều khẳng định các Doanh
nghiệp trong khu công nghiệp khi cho thuê nhà xưởng, nhà văn phòng dư thừa đều
phải đáp ứng đủ điều kiện về ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật
về kinh doanh bất động sản, tức là phải bổ sung ngành nghề kinh doanh bất động
sản thì mới được thực hiện hoạt động cho thuê lại nhà xưởng, văn phòng dư thừa.
Có thể mở rộng quy định này cho cả những doanh nghiệp hoạt động ngoài Khu công
nghiệp vì cơ chế về ngành nghề kinh doanh là hoàn toàn như nhau.
Đến năm 2011 Bộ kế hoạch đầu tư tiếp tục có Công văn
5620/BKHĐT-QLKKT gửi Ban quản lý các khu công nghiệp Tây Ninh khẳng định việc
cho thuê lại nhà xưởng, văn phòng dư thừa chỉ được thực hiện khi đã bổ sung
ngành nghề kinh doanh bất động sản. Tuy nhiên năm 2013 Bộ xây dựng có Công văn
số 64/BXD-QLN trả lời Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Long An do Cục trưởng Cục quản lý
nhà và thị trường Bất động sản Nguyễn Mạnh Hà ký lại thể hiện quan điểm hoàn
toàn ngược lại với 03 công văn nêu trên, nội dung thể hiện “Các tổ chức, cá nhân xây dựng nhà xưởng
để sản xuất kinh doanh, nhưng gặp khó khăn hoặc dư thừa diện tích nhà xưởng và
cho thuê các diện tích nhà xưởng này thì không phải thành lập doanh nghiệp hoặc
hợp tác xã và đăng ký kinh doanh bất động sản. Khi các tổ chức, cá nhân cho
thuê nhà xưởng thì phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ về thuế theo quy
định pháp luật đối với hoạt động cho thuê”. Cơ sở của quan điểm này cho rằng việc cho thuê xuất phát từ
việc
Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc dư thừa về
diện tích không sử dụng hết nên mới cho thuê, mục đích không phải là sinh lợi
nên không phải đăng ký kinh doanh bất động sản.
Quan điểm cho phép
Doanh nghiệp có nhà xưởng, văn phòng dư thừa được phép cho thuê lại mà không bắt
buộc phải đăng ký ngành nghề kinh doanh bất động sản là quan điểm có lợi cho
Doanh nghiệp. Vì trên thực tế có những Doanh nghiệp vì lý do kinh tế họ phải
thu hẹp quy mô sản xuất dẫn đến dư thừa văn phòng hoặc nhà xưởng thì việc cho
thuê để bù đắp chi phí cho doanh nghiệp là nhu cầu rất chính đáng, nếu yêu cầu
họ bổ sung ngành nghề kinh doanh bất động sản thì không phải doanh nghiệp nào
cũng đáp ứng được điều kiện về vốn pháp định 06 tỷ đồng trong khi họ đang gặp
khó khăn về tài chính đến mức phải thu hẹp quy mô kinh doanh hoặc có những
Doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực chuyên doanh…thì việc bổ sung ngành
nghề kinh doanh bất động sản là bất khả thi. Ngược lại việc quy định việc cho thuê
văn phòng, nhà xưởng dư thừa bắt buộc phải bổ sung ngành nghề kinh doanh bất động
sản có phần hơi cứng nhắc đối với những doanh nghiệp đang gặp khó khăn phải thu
hẹp quy mô sản xuất; nhưng ngược lại nó lại tránh tình trạng Doanh nghiệp cố
tình tạo ra nhà xưởng và văn phòng dư thừa để hoạt động kinh doanh bất động sản
mà không cần phải đăng ký ngành nghề nhất là trong bối cảnh khi dự thảo luật
Kinh doanh bất động sản 2014 được chốt lại để trình lên Quốc hội quy định vốn
pháp định không thấp hơn 50 tỷ đồng..
Việc mâu thuẫn trong
nội dung hướng dẫn (dù chỉ là mang tính tham khảo của các cơ quan quản lý Nhà
nước khác nhau hay trong cùng một cơ quan) khiến việc Doanh nghiệp lúng túng
trong việc thực hiện. Thực tế hành nghề người viết đã từng chứng kiến những
Doanh nghiệp không có hoạt động kinh doanh bất động sản vẫn ký hợp đồng cho
thuê nhà xưởng, văn phòng dư thừa và vẫn có Công chứng viên chấp nhận công chứng
hợp đồng cho thuê này. Điều này rõ ràng tạo ra không ít rủi ro cho các Doanh
nghiệp đang tham gia các giao dịch cho thuê nhà xưởng, văn phòng dư thừa nếu
bên cho thuê không có ngành nghề kinh doanh bất động sản – nếu xảy ra tranh chấp
sẽ tạo ra những tranh cãi không rõ đúng sai về tính pháp lý của các giao dịch
này.
Một tín hiệu tích cực
là tại Khoản 2 Điều 8 Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản 2014 cũng có quy định
về việc “Các trường hợp bán, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản không nhằm mục đích kinh doanh
hoặc có quy mô nhỏ thì không phải thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh
bất động sản nhưng phải đăng ký kê khai, nộp thuế theo quy định của pháp luật về
thuế. Chính phủ quy định chi tiết Điều này” – Như vậy có vẻ như Dự thảo đã
điều chỉnh đến những trường hợp cho thuê nhà xưởng, văn phòng dư thừa. Đối với
trường hợp quy mô nhỏ thì có thể dễ dàng xác định bằng việc ấn định một con số về
diện tích kết hợp với doanh thu. Tuy nhiên việc phân định rạch ròi những trường
hợp Doanh nghiệp cho thuê văn phòng, nhà xưởng không nhằm mục đích kinh doanh
và có nhằm mục đích kinh doanh là bài toán không hề đơn giản cho hoạt động lập
pháp của chính phủ (*).
Lời
kết
Mặc dù đã được đề cập
nhưng Luật kinh doanh Bất động sản 2014 mới chỉ là dự thảo và để áp dụng được
thì ít nhất phải 01 năm nữa. Trong khoảng thời gian này liên ngành Tòa án, Xây
dựng, Kế hoạch đầu tư cần có những văn bản kịp thời, thống nhấ hướng dẫn về việc
cho thuê lại nhà xưởng, văn phòng dư thừa có nhất thiệt phải đăng ký kinh doanh
hay không? Nếu có thì trong trường hợp nào?
Ngoài ra Bộ tài
nguyên môi trường cũng cần có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp cho thuê lại
tài sản trên đất thuê trả tiền hàng năm để Doanh nghiệp yên tâm hoạt động.
(*)Trên thực tế
có những trường hợp rất dễ xác định Doanh nghiệp có mục đích kinh doanh hay
không kinh doanh để có yêu cầu họ phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề bất động
sản hay không?. Đó là trường hợp doanh nghiệp ban đầu hoạt động tại địa điểm A, nhưng
sau đó vì nhiều lý do họ buộc phải thuê địa điểm B để hoạt động và cho đơn vị
khác thuê lại địa điểm A. Nếu doanh thu từ việc cho thuê địa điểm A nhỏ hơn
chi phí thuê địa điểm B hoặc lớn hơn nhưng không đáng kể thì hoàn toàn có thể
khẳng định doanh nghiệp thực hiện hoạt động cho thuê không nhằm mục đích kinh
doanh.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét