18 tháng 7, 2014

Đơn Phương Chấm Dứt Thực Hiện Hợp Đồng Ủy Quyền Đã Công Chứng

LS Hoàng Văn Thạch
Võ Thị Mai Trang

         Một vấn đề bất cập tồn tại suốt mấy năm nay đó là vấn đề “hủy bỏ” Hợp đồng ủy quyền đã được công chứng. Mà cụ thể ở đây là trường hợp một ông A ủy quyền cho bà B thực hiện một công việc X. Một thời gian ông A không muốn ủy quyền nữa thì ông ấy phải làm gì?. Lâu nay người ta vẫn bảo ông ấy muốn làm được việc này chỉ có 02 cách hoặc là cùng mời bà ấy đến Văn phòng công chứng đã công chứng hợp đồng ủy quyền để hủy bỏ nó hoặc nếu không được thì khởi kiện tại tòa án. (nguồn một vài trong rất nhiều ví dụ minh họa:
       Vừa rồi đi ăn tiệc cưới lại có dịp tranh luận sôi nổi với với một nhóm gồm cả Luật sư, Công chứng viên, Cán bộ pháp chế ngồi túm tụm vào một mâm.
     Vấn đề không phải ai đó không hiểu thực trạng nó như thế nào mà là cách lý giải thế nào cho nó khoa học. Anh Công chứng viên có mái tóc muối tiêu chỉ lý giải một cách nguyên tắc rằng “về nguyên tắc hai bên ký vào hợp đồng thì muốn hủy bỏ hai bên phải cùng thống nhất…”.
Cá nhân tôi có cách lý giải riêng mình như sau:
1.            Hủy bỏ hợp đồng và Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là khác nhau.
Trước tiên cần thống nhất rằng hợp đồng ủy quyền cũng là một hợp đồng dân sự. Đã là hợp đồng dân sự thì phải chịu sự điều chỉnh theo chế định chung về hợp đồng dân sự được quy định tại BLDS 2005. Theo quy định tại Điều 425 và 426 BLDS 2005 chúng ta thấy khái niệm “hủy bỏ hợp đồng” và khái niệm “đơn phương chấm dứt thực hiên hợp đồng” là hoàn toàn khác nhau – được quy định bởi hai quy định khác nhau.
Việc “hủy bỏ hợp đồng” dù do hai bên thỏa thuận hay pháp luật quy định thì nó luôn gắn với việc vi phạm hợp đồng của một bên. Và khi hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng không có hiệu lực ngay từ khi giao kết.
Còn “đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng” thì có thể phát sinh do vi phạm hoặc không do vi phạm miễn là các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Và khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thì nó chỉ chấm dứt khi một bên nhận được thông báo về việc chấm dứt thực hiện thực hiện hợp đồng của bên đối tác. Các bên vẫn phải chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của mình đối với phần hợp đồng đã thực hiện trước đó.
Hủy bỏ hợp đồng giống như khi ta đốt một sợi dây còn Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng giống như khi ta cắt đứt một sợi dây.
Vậy nếu một người đã ký hợp đồng ủy quyền có công chứng cho một người khác nay tự ý muốn chấm dứt việc ủy quyền này thì đó là “hủy bỏ” hay “đơn phương chấm dứt thực hiện” hợp đồng ủy quyền này?. Rõ ràng đây là trường hợp “đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng” mà cụ thể là đơn phương chấm dứt việc ủy quyền. Điều này hoàn toàn được pháp luật cho phép. Theo quy định tại Điều 588 BLDS 2005 thì mọi hợp đồng ủy quyền thì Bên ủy quyền hoặc Bên nhận ủy quyền khi không muốn ủy quyền/nhận ủy quyền nữa thì đều có quyền đơn phương chấm dứt trước thời hạn và chỉ việc báo trước 1 thời gian hợp lý (và chấp nhận bồi thường thiệt hại nếu có)
2.            Luật công chứng không quy định việc đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền thì bắt buộc các bên phải cùng nhau đến cơ quan công chứng.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 46 Luật công chứng 2006 thì “Việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thoả thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó và phải được công chứng.”. Như vậy nội dung quy định trên chỉ yêu cầu việc 1. Sửa đổi, 2. Bổ sung, 3. Hủy bỏ hợp đồng, giao dịch. Khoản 1 Điều 46 Luật công chứng 2006 không hề quy định việc “Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đã được công chứng” nói chung hay “đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền đã được công chứng” nói riêng chỉ được thực hiện khi có  khi có sự thoả thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó và thỏa thuận đó phải được công chứng.
Như vậy giữa Bộ luật dân sự 2005 và Luật công chứng 2006 chẳng có gì mâu thuẫn và lâu nay cách hiểu như vậy của nhiều công chứng viên và vô số các bài viết trên mạng như đã trích dẫn đối với trường hợp một bên muồn chấm dứt việc ủy quyền đã được ghi nhận bằng hợp đồng công chứng hoàn toàn nhầm lẫn giữa hai khái niệm “hủy bỏ hợp đồng” và “đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng”.
Tuy nhiên do nghề công chứng viên là nghề có tính rủi ro cao. Do vậy có lẻ tại Khoản 1 Điều 44 Luật công chứng 2006 không quy định về trường hợp đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đã được công chứng nên Công chứng viên chưa mạnh dạn triển khai việc xác nhận việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng chăng?
Do vậy nếu hiểu đúng quy định của pháp luật thì theo tôi trong trường hợp này Bên ủy quyền chỉ cần đến Văn phòng công chứng có văn bản xác nhận về việc đơn phương chấm dứt việc ủy quyền là được mà không cần phải có sự xuất hiện của Bên được ủy quyền.
1.      Mâu thuẫn trong Bộ luật dân sự 2005 khi quy định về chấm dứt tư cách đại diện theo ủy quyền.
Điều 588 quy định việc Bên ủy quyền hoặc Bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền.
Điều 424 BLDS quy định khi hợp đồng bị Đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng đó bị chấm dứt.
Tuy nhiên Khoản 2 Điều 147 khi quy định về các trường hợp chấm dứt tư cách đại diện theo ủy quyền của cá nhân lại không quy định về trường hợp khi một bên “đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền” mà thay vào đó lại quy định về trường hợp “hủy bỏ việc ủy quyền”.
2.      Việc hủy bỏ và bổ sung hợp đồng công chứng không còn quy định bắt buộc phải công chứng?
Theo Luật công chứng 2014 có hiệu lực vào ngày 01.01.2015 tới đây thì Khoản 1 Điều 51 quy định “Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó”. (Thay cụm từ “việc sửa đổi …” = “việc công chứng sửa đổi…”)
Như vậy nếu theo quy định này thì Luật công chứng 2014 không còn bắt buộc các trường hợp hợp đồng trước đó đã được công chứng rồi thì sau này muốn sửa đổi, hủy bỏ, bổ sung thì cũng phải công chứng nữa.
Tuy nhiên theo Điều 423 BLDS thì hình thức của hợp đồng gốc thế nào thì khi sửa đổi cũng phải thế đó. Do vậy việc sửa đổi đối với hợp đồng đã công chứng thì khi “sửa đổi” bắt buộc phải công chứng. Riêng hai trường hợp còn lại là “bổ sung” và “hủy bỏ” thì không có quy định  nào bắt buộc.