16 tháng 3, 2013

Góp Ý Dự Thảo Nghị Định "Cho Phép Công An Được Nổ Súng Trực Tiếp Vào Người Vi Phạm"


Toàn Văn Góp Ý Dự Thảo Nghị Định Quy Định Các Biện Pháp Phòng Ngừa, Ngăn Chặn & Xử Lý Hành Vi Chống Người Thi Hành Công Vụ do Bộ công an chủ trì soạn thảo đang được đưa ra lấy ý kiến nhân dân
Người góp ý: Ls Hoàng Văn Thạch
Ngọc Lan
I.              Tiêu chí góp ý:
Việc góp ý được xây dựng trên 04 tiêu chí:
1.            Tính minh bạch:
-  Ngôn ngữ sử dụng có chính xác, dễ hiểu không?
-  Diễn đạt có rõ ràng không? Có thể bị hiểu theo nhiều cách khác nhau không?
….
2.      Tính thống nhất:
   - Có mâu thuẫn với các quy định tại văn bản có giá trị pháp lý cao hơn hay không? có mâu thuẫn với chính các quy định khác trong nội dung dự thảo hay không?
……………..
3. Tính hợp lý:
- Có phù hợp với thực tế cũng như các giá trị xã hội khác hay không
………….
4. Tính khả thi:
- Có dễ dàng thực thi trên thực tế không?

II. Nội Dung Góp Ý
STT
Quy định liên quan
Tiêu chí vi phạm
Trích Dẫn, Phân tích & Góp ý
1
- Khoản 1 Điều 3 về giải thích thuật ngữ “người thi hành công vụ”
- Khoản 1 Điều 3 Luật bồi thường nhà nước.
Tính minh bạch
Phân tích: Dự thảo quy định “Người thi hành công vụ là người được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội”.
Trong khi đó Khoản 1 Điều 3 Luật bồi thường Nhà nước quy định “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án”.
Hai quy định này có nội hàm không khác nhau. Tuy nhiên việc diễn giải khác nhau dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Không đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.
Góp ý: Khi giải thích thuật ngữ “người thi hành công vụ” thay vì Nghị định tự đưa ra một quy định riêng thì nên sử dụng quy định này trong Luật bồi thường Nhà nước.

2
- Khoản 2 Điều 3 dự thảo về giải thích thuật ngữ “chống người thi hành công vụ”
- Khoản 1 Điều 257 BLHS 1999 (sửa đổi năm 2010) về tội “chống người thi hành công vụ”
- Khoản 9 Điều 8, Điểm b Khoản 2 Điều 38 Nghị định 24/2010/NĐ-CP đã được sửa đổi bởi Nghị định 71/2012/NĐ-CP.
Tính thống nhất
Phân tích: Khoản 2 Điều 3 dự thảo quy định “Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao, ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ hoặc có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ
Trong khi đó Khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự quy định về tội chống người thi hành công vụ như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Như vậy có thể thấy Dự thảo quy định 03 nhóm hành vi chống người thi hành công vụ: 1 - nhóm hành vi cản trở; 2 - nhóm hành vi không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu; 3 - nhóm hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm người thi hành công vụ.
Trong khi Bộ luật hình sự chỉ xử lý hình sự đối với nhóm hành vi cản trở người thi hành công vụ.
Còn 02 nhóm hành vi còn lại là không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu; và xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ mặc dù được dự thảo quy định là hành vi “chống người thi hành công vụ” nhưng nếu hành vi đó nguy hiểm đến mức cần xử lý hình sự thì lại sẽ không bị xử lý về tội “chống người thi hành công vụ” mà bị xử lý về các tội tương ứng khác tùy từng trường hợp. VD: tội “làm nhục người khác” Điều 121 BLHS hoặc người không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu trong khi tham gia giao thông đường bộ thì bị xử lý hình sự về tội “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” – Điều 202 BLHS. Điều này là bất hợp lý.
Ngoài ra quy định  trên còn mâu thuẫn với những văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Ví dụ trong Nghị định 34/2010/NĐ-CP sửa đổi bởi Nghị định 71/2012/NĐ-CP  quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ cũng không coi hành vi không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ hoặc xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ là hành vi “chống người thi hành công vụ” thể hiện qua các liên từ “hoặc”, dấu phẩy để liên kết các cụm từ trên với nhau.
Cụ thể tại Khoản 9 Điều 8 Nghị định này quy định “Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm d Khoản 7 Điều này mà gây tai nạn hoặc không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành công vụ hoặc chống người thi hành công vụ
Tại Điểm b khoản 2 Điều 38 quy định “Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây::.. b. Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự hoặc chống lại người thi hành công vụ, xúi giục người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ, sử dụng uy tín của cá nhân, tổ chức để gây áp lực, cản trở người thi hành công vụ, trừ các hành vi vi phạm quy định tại: Điểm b Khoản 8, Khoản 9 Điều 8; Điểm g Khoản 6, Khoản 8 Điều 9; Khoản 2, Điểm a Khoản 5 Điều 37 của Nghị định này;”.
Kiến nghị: Không coi nhóm hành vi về không chấp hành yêu cầu, hiệu lệnh hoặc xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ là hành vi ”chống người thi hành công vụ” mà đó là hành vi độc lập, chỉ giữ lại nhóm hành vi cản trở người thi hành công vụ.

3
- Khoản 4 Điều 3 dự thảo quy định về giải thích thuật ngữ ”dùng thủ đoạn khác để chống người thi hành công vụ”.
- Khoản 2 Điều 3 dự thảo về giải thích thuật ngữ ”chống người thi hành công vụ”


Tính minh bạch, tính thống nhất.
Phân tích: Khoản 4 Điều 3 Dự thảo quy định Dùng thủ đoạn khác để chống người thi hành công vụ là việc sử dụng lời nói, cử chỉ, hành động để xâm phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ hoặc đe dọa tố cáo, tiết lộ bí mật đời tư và các hành vi vi phạm khác nhằm gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về tài sản của người thi hành công vụ
Trong khi “dùng thủ đoạn khác” và “xúc phạm danh dự, nhân phẩm” người thi hành công vụ đều là các hành vi chống người thi hành công vụ đứng độc lập với nhau trong quy định tại Khoản 2 Điều 3 dự thảo. Do vậy khi giải thích về “dùng thủ đoạn khác” lại tiếp tục nhắc lại hành vi “xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Tức khẳng định “xúc phạm danh dự, nhân phẩm” nằm trong nhóm “thủ đoạn khác”.

Kiến nghị: bỏ đoạn “sử dụng lời nói, cử chỉ, hành động để xâm phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ”.

4
- Khoản 2 Điều 5 quy định về các hành vi nghiêm cấm đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.

Tính minh bạch, tính thống nhất.
Khoản 2 Điều 5 Dự thảo quy định “2. Đối với tổ chức, cá nhân khác:
 a) Coi thường pháp luật; không chấp hành sự điều hành, hướng dẫn, yêu cầu của người thi hành công vụ; chống đối người thi hành công vụ hoặc cản trở người thi hành công vụ thực thi nhiệm vụ;
 b) Lợi dụng quyền tự do, dân chủ để lôi kéo, xúi dục, kích động người khác chống người thi hành công vụ;
 c) Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ; xâm hại tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của lực lượng thi hành công vụ.
d) Các hành vi khác nhằm chống người thi hành công vụ”.
1. Phân tích:
- Tại điểm a thì hành vi “coi thường pháp luật” rất mơ hồ. Thực chất việc “coi thường pháp luật” chính là việc “chống người thi hành công vụ”.
- Tại Khoản 2 Điều 3 dự thảo đã quy định hành vi cản trở người thi hành công vụ, không chấp hành yêu cầu, hiệu lệnh của người thi hành công vụ và xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ chính là “chống người thi hành công vụ”.
Do vậy Điểm a đã sử dụng cụm từ “chống đối người thi hành công vụ” (theo người viết thì “chống đối” và “chống” là một) thì các quy định về không chấp hành sự điều hành, hướng dẫn, yêu cầu của người thi hành công vụ; cản trở người thi hành công vụ hay xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ (quy định tại Điểm c) hay các hành vi khác nhằm chống người thi hành công vụ (quy định tại điểm d) cần phải bỏ. Để lại chỉ dài dòng, phức tạp, khó hiểu.

2. Kiến nghị:
Khoản 2 Điều 5 chỉ nên quy định hai nhóm hành vi bị nghiêm cấm đối với cơ quan tổ chức khác là: chống người thi hành công vụ và lôi kéo, xúi dục, kích động người khác chống người thi hành công vụ. Khi đó Khoản 2 Điều 5 nên quy định lại là: “2. Đối với tổ chức, cá nhân khác:
a.      Chống người thi hành công vụ
b.      Lôi kéo, xúi dục, kích động người khác chống người thi hành công vụ”

5
- Điều 18 Dự thảo quy định về Xử lý tình huống khi có hành vi chống người thi hành công vụ
- Khoản 3 Điều 8, Điều 15, Điều 143 BLHS
- Điều 22 Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ


Tính thống nhất, tính hợp lý, tính minh bạch, tính khả thi.
Trích dẫn: “Điều 18 Xử lý tình huống khi có hành vi chống người thi hành công vụ
1. Trường hợp hành vi chống người thi hành công vụ có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng thì người thi hành công vụ được sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ và các phương tiện kỹ thuật được trang bị để khống chế, bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ.
2. Trường hợp có căn cứ thực tế để cho rằng hành vi chống người thi hành công vụ sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người thi hành công vụ hoặc của người khác hoặc có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì người thi hành công vụ được sử dụng công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật hoặc nổ súng trực tiếp vào người và phương tiện vi phạm để phòng vệ, tấn công, vô hiệu hóa hành vi chống người thi hành công vụ, kịp thời ngăn chặn hậu quả xảy ra và bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ”.

Phân tích:
1. Về tính minh bạch và tính khả thi: Khi có hành vi chống người thi hành công vụ thì buộc người thi hành công vụ sẽ phải đưa ra quyết định tức thời, giống như trọng tài trong môn bong đá vậy. Do vậy việc điều luật sử dụng các khái niệm “hậu quả nghiêm trọng” và “tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” là khó hiểu, khó vận dụng trong thực tế;  bản thân những người thi hành công vụ không phải ai cũng là cử nhân Luật để có thể hiểu được các khái niệm này chứ chưa nói đến việc xác định và đưa ra quyết định khẩn cấp trong trường hợp như vậy. Thậm chí quy định của pháp luật hiện nay đối với các thuật ngữ này còn chưa đầy đủ, chưa thống nhất.
Đối với việc xác định “hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản” hiện nay không có quy định chung cho tất cả các trường hợp; việc áp dụng pháp luật đôi khi phải áp dụng pháp luật tương tự. Nhưng đối với trường hợp này hiện nay tồn tại đến 02 quy định song song.
- Theo Nghi quyết 02/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phần hướng dẫn Điều 202 BLHS về tội “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” thì “thiệt hại nghiêm trọng” (được hiểu như là “gây hậu quả nghiêm trọng”) nghĩa là “a. Làm chết một người; b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%; d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”.
- Tuy nhiên theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP hướng dẫn áp dụng chương XIV "Các tội phạm xâm phạm sở hữu" của Bộ luật Hình sự năm 1999 do Bộ Công An; Bộ Tư pháp; Toà án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thì “gây hậu quả nghiêm trọng” là một trong các trường hợp sau đây: “a) Làm chết một người; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a  và b  trên đây;  đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng”.
Có thể thấy nội dung 02 quy định trên có một số điểm không thống nhất, vậy áp dụng Nghi định sẽ phải chọn một trong hai văn bản để áp dụng tương tự. Khi đó các Bộ lại sẽ phải ban hành thêm thông tư để hướng dẫn về vấn đề này. Vô tình Nghị định đã làm rối thêm vấn đề rồi sau đó lại mất công hướng dẫn bằng thông tư. Ngoài ra việc xác định hậu quả nghiêm trọng là người chết thì dễ chứ xác định căn cứ trên hậu quả đối với sức khỏe và tài sản thì theo thủ tục tố tụng hình sự đều phải dùng đến cơ quan giám định. Một việc khó như vậy đâu có thể để cho người thi hành công vụ tự nhận định và quyết định được?
- Đối với khái niệm “tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”  hiện được quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS, thể hiện tính chất của tội phạm. Trong đó tội phạm ít nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là 03 năm tù, tội phạm nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là 07 năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là 15 năm tù và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là trên 15 năm năm tù, chung thân hoặc tử hình. Việc phải đưa ra nhận định trước khi hành vi đó gây hậu quả là rất khó, vì có khi cùng một tội danh nhưng mức độ khác nhau thì hành vi đó lại thuộc các khoản khác nhau dẫn đến tính chất tội phạm cũng khác nhau, thậm chí đôi khi còn phụ thuộc cả vào nhân thân người vi phạm nữa – cũng hành vi đó nhưng nếu người có tiền án thì nó là nghiêm trọng, ngược lại thì là ít nghiêm trọng; bên cạnh đó nhiều trường hợp còn phải giám định mới có thể xác định được tội phạm thuộc khung nào trong tội danh đó để từ đó đánh giá tính chất của tội phạm. Như vậy để có thể tự tin nổ súng mỗi người thi hành công vụ phải là một chuyên gia pháp luật hình sự kiêm luôn nhân viên giám định.

2. Tính thống nhất
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 22 Pháp lệnh về vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ “Các trường hợp nổ súng gồm:
a) Đối tượng đang sử dụng vũ lực, vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp đe dọa đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;
b) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc đe dọa sự an toàn của công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật;
c) Đối tượng đang thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ;
d) Đối tượng đang sử dụng vũ khí gây rối trật tự công cộng có thể gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
d) Đối tượng đang đánh tháo người bị giam, người bị dẫn giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm; người bị giam, giữ, bị dẫn giải, bị áp giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đang chạy trốn hoặc chống lại;
e) Được phép bắn vào phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thủy nội địa để dừng phương tiện đó trong các trường hợp sau, trừ phương tiện giao thông của các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế:
Đối tượng điều khiển phương tiện đó tấn công hoặc đe doạ trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;
Khi biết rõ phương tiện đó do đối tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở khách hoặc có con tin;
Khi biết rõ trên phương tiện cố tình chạy trốn có đối tượng phạm tội hoặc vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy số lượng lớn, tài sản đặc biệt quý hiếm, bảo vật quốc gia, trừ trường hợp trên phương tiện có chở khách hoặc có con tin;
g) Động vật đang đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác.”
Theo quy định trên có thể xác định được các trường hợp nổ súng mà có liên quan đến hành vi chống người thi hành công vụ được quy định tại điểm a “Đối tượng đang sử dụng vũ lực, vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp đe dọa đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác” và điểm c “Đối tượng đang thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ” và ý hai của điểm d “người bị giam, giữ, bị dẫn giải, bị áp giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đang chống lại”. Ba quy định này rất dễ hiểu và dễ xác định được các trường hợp được nổ súng. Mặc dù vẫn có thể có người đặt câu hỏi “thế nào là đe dọa tính mạng?” tuy nhiên trong một tình huống cụ thể thì gần như tất cả những người dân bình thường đều có thể đưa ra được nhận định của mình về việc hành vi đó đã đe dọa đến tính mạng người khác hay chưa? VD: đối tượng vi phạm dung gậy sắt đuổi đánh người thi hành công vụ thì có thể có người cho là nó chưa đe dọa đến tính mạng, mới chỉ đe dọa đến sức khỏe thôi; lại cũng có người cho rằng hành vi đó cùng với thái độ của người vi phạm thì được coi là đe dọa đến tính mạng người thi hành công vụ. Hay nói cách khác quy định trên là dễ hiểu, dễ vận dụng; chỉ có cách nhận định của mỗi người khác nhau thôi. Còn hành vi cướp súng của người thi hành công vụ thì quá rõ ràng, có lẽ không cần bình thêm. Hai hành vi trên tựu trung lại thì đều là trường hợp hành vi vi phạm đang đe dọa đến tính mạng người khác, tức đe dọa đến cái quyền thiêng liêng nhất của con người là quyền được sống. Cho nên pháp lệnh mới quy định cho phép được nổ súng. Còn trường hợp thứ 3 “người bị giam, giữ, bị dẫn giải, bị áp giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đang chống lại”  cũng là trường hợp mà các tội tượng mặc dù phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (có hình phạt từ 15 năm tù trở lên đến chung thân, tử hình) đang bị dẫn giải nhưng vẫn thể hiện bản chất lưu mang, hung hãn khi chống lại người thi hành công vụ, các đối tượng này nếu thoát ra ngoài sẽ gây nguy hiểm rất nhiều cho xã hội và rất khó để cải tạo cho nên việc nổ súng vào nhóm đối tượng này là cần thiết. (Bản thân các cán bộ dẫn giải đối tượng vi phạm trong trường hợp này cũng đã xác định được người vi phạm có phải là đối tượng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay không? Nên việc đưa ra quyết định nổ súng rất dễ dàng.)
Tuy nhiên dự thảo nghị định lại quy định ngay cả khi đe dọa đến sức khỏe hoặc tài sản của người thi hành công vụ hoặc người khác thì người thi hành công vụ đều có quyền nổ súng. Tức là dự thảo đã mở rộng thêm quyền được nổ súng chứ không phải cụ thể hóa Pháp lệnh. Ví dụ: một người đang có hành vi chống người thi hành công vụ bằng việc phóng hỏa đốt chiếc xe mô tô của Công an giao thông, khi đó nếu chiếc xe của lực lượng Công an có giá trị từ 50 – dưới 200 triệu đồng thì hành vi của người vi phạm có dấu hiệu phạm vào Khoản 2 Điều 143 BLHS tội “hủy hoại tài sản” có hình phạt từ 2 – 7 năm tù - tức tội phạm nghiêm trọng. Lúc này theo quy định của Khoản 3 Điều 22 pháp lệnh cũng như Điều 15 BLHS thì cảnh sát giao thông không được phép nổ súng vào người vi phạm mà phải dùng các biện pháp ngăn chặn khác, thậm chí nếu không còn biện pháp nào thì cũng đành để người vi phạm đốt chiếc xe và xử lý sau chứ không được bắn thẳng vào họ. Tuy nhiên theo Khoản 2 Điều 18 dự thảo thì trường hợp này Công an giao thông được phép nổ súng trực tiếp vào người vi phạm (tức có thể giết chết anh ta).
Mặc dù tinh thần của Nghị định dự thảo là quy định cụ thể, chị tiết hơn quy định tại pháp lệnh, nhưng thực chất là bổ sung thêm quy định mới.
3. Tính hợp lý: Quyền được sống của con người là quyền thiêng liên và quan trọng nhất trong các quyền. Do vậy việc tước đoạt sinh mạng của người khác phải được quy định một cách chặt chẽ và thấu đáo. Chỉ khi cá nhân đó xâm phạm hoặc có ý định hoặc nguy cơ xâm phạm đến quyền được sống của người khác hoặc khí họ trở thành đối tượng nguy hiểm cho xã hội, khó cải tạo thì mới được quyền tước bỏ tính mạng của họ. Đó cũng chính là lý do vì sao mà pháp lệnh đã quy định về 03 trường hợp được nổ súng liên quan đến chống người thi hành công vụ mà tôi đã liệt kê ở trên.
Kiến nghị: Nên bỏ quy định cho phép người thi hành công vụ được nổ súng trực tiếp vào người chống người thi hành công vụ như trong dự thảo. Thay vào đó nên quy định việc nổ súng trực tiếp vào người thi hành công vụ thực hiện theo theo Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ



II. Nội Dung Dự Thảo Nghị Định đang được lấy ý kiến (đính kèm):

CHÍNH PHỦ


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số:        /2013/NĐ-CP
Hà Nội, ngày       tháng    năm 2013
DỰ THẢO
NGHỊ ĐỊNH
Quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý
hành vi chống người thi hành công vụ



Căn cứ Bộ luật hình sự năm 1999; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 2009;
Căn cứ Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
Căn cứ Pháp lệnh về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2011;
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an;
Chính phủ ban hành Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.


Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ; các điều kiện bảo đảm; chế độ, chính sách đối với người thi hành công vụ, người trực tiếp tham gia ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý  hành vi chống người thi hành công vụ.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Nghị định này áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và các công dân được giao nhiệm vụ thi hành công vụ; các cơ quan, tổ chức, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức, người nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Người thi hành công vụ là người được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội.
            2. Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao, ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ hoặc có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ.
            3. Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành công vụ là việc sử dụng sức mạnh thể chất hoặc công cụ, phương tiện để tấn công hoặc đe dọa tấn công người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao.
            4. Dùng thủ đoạn khác để chống người thi hành công vụ là việc sử dụng lời nói, cử chỉ, hành động để xâm phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ hoặc đe dọa tố cáo, tiết lộ bí mật đời tư và các hành vi vi phạm khác nhằm gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về tài sản của người thi hành công vụ.
Điều 4. Nguyên tắc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ
1. Tuân thủ quy định của pháp luật; tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Lấy phòng ngừa là chính; chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm khắc mọi hành vi chống người thi hành công vụ.
3. Thận trọng, chủ động, linh hoạt trong ngăn chặn, xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ; bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ; hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản do hành vi chống người thi hành công vụ gây ra.
4. Bảo đảm các yêu cầu về chính trị, pháp luật, nghiệp vụ. Chỉ áp dụng các biện pháp ngăn chặn khẩn cấp, các biện pháp cưỡng chế cần thiết sau khi đã áp dụng các biện pháp vận động, thuyết phục người có hành vi chống người thi hành công vụ nhưng không có hiệu quả.
Điều 5. Các hành vi bị nghiêm cấm
            1. Đối với người thi hành công vụ:
a) Vi phạm điều lệnh, nội quy, quy trình, kế hoạch công tác, vi phạm trình tự, thủ tục, thẩm quyền trong khi thi hành công vụ;
b) Vi phạm đạo đức nghề nghiệp; tham nhũng, tiêu cực, trục lợi cá nhân, hách dịch, cửa quyền hoặc có hành vi, thái độ, tác phong, lời nói, ứng xử không đúng mực trong khi thi hành công vụ;
c) Vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, vật liệu nổ; vi phạm các quy định về nổ súng hoặc vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác trong khi thi hành công vụ.
2. Đối với tổ chức, cá nhân khác:
            a) Coi thường pháp luật; không chấp hành sự điều hành, hướng dẫn, yêu cầu của người thi hành công vụ; chống đối người thi hành công vụ hoặc cản trở người thi hành công vụ thực thi nhiệm vụ;
b) Lợi dụng quyền tự do, dân chủ để lôi kéo, xúi dục, kích động người khác chống người thi hành công vụ;
            c) Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ; xâm hại tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của lực lượng thi hành công vụ.
d) Các hành vi khác nhằm chống người thi hành công vụ.
Điều 6. Bảo đảm kinh phí cho hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ
Kinh phí cho hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ do ngân sách Nhà nước cấp. Việc lập dự toán, cấp và sử dụng kinh phí cho hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ được thực hiện theo Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Điều 7. Chế độ, chính sách đối với người thi hành công vụ, người trực tiếp tham gia ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ
1. Người thi hành công vụ, người trực tiếp tham gia ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ có thành tích thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; trường hợp bị chết thì được xem xét, công nhận là liệt sĩ, nếu bị thương thì được xem xét, công nhận là thương binh hoặc được hưởng chính sách như thương binh theo quy định của pháp luật.
2. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
Chương II
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA
HÀNH VI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

            Điều 8. Tham mưu, đề xuất chính sách, pháp luật, biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ
            Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tham mưu, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.
            Điều 9. Thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ
            Cơ quan, tổ chức, chính quyền các cấp có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các lực lượng thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân và các thành viên thuộc cơ quan, tổ chức, địa phương mình; xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ.
            Điều 10. Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, quy trình, quy chế, kế hoạch công tác
            Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan, tổ chức, lực lượng thực thi công vụ có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, quy trình, quy chế, kế hoạch công tác cụ thể đối với từng lĩnh vực, địa bàn, đối tượng cụ thể. Trong đó, các phương án, quy trình, quy chế, kế hoạch công tác và chiến đấu phải dự kiến các tình huống có thể xảy ra và biện pháp, cách thức, trình tự giải quyết, nhất là các tình huống liên quan đến gây rối trật tự công cộng; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trong việc cưỡng chế, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất đai; tuần tra, kiểm soát xử lý vi phạm về trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng; ngăn chặn hành vi phạm tội và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
            Điều 11. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
            Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xây dựng và thực hiện chương trình huấn luyện, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, phương pháp vận động, thuyết phục, kỹ năng sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng và kỹ năng phòng vệ chính đáng, xử lý tình huống khi có hành vi chống người thi hành công vụ cho phù hợp với đối tượng, địa bàn, lĩnh vực thuộc quyền quản lý. Xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành công vụ trong sạch, vững mạnh, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện chức năng, chức trách; rèn luyện lễ tiết, tác phong, thái độ đúng mực của người thi hành công vụ trong khi thực thi nhiệm vụ.         
Điều 12. Tuần tra, kiểm soát, bảo vệ các khu vực, địa bàn theo quy định của pháp luật
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, đơn vị Công an, Quân đội, Kiểm lâm, Hải quan và các cơ quan, tổ chức, lực lượng thực thi công vụ khác có trách nhiệm tổ chức tuần tra, kiểm soát trên phạm vi lĩnh vực, địa bàn, tuyến thuộc thẩm quyền quản lý; kịp thời phát hiện, xử lý đối tượng có hành vi chế tạo, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Khi tiến hành hoạt động tuần tra, kiểm soát, lực lượng thực thi công vụ phải sử dụng đúng trang phục, phương tiện được trang bị; tuân thủ trình tự, thủ tục, kế hoạch, quy trình công tác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Điều 13. Trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện nghiệp vụ và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ
Người thi hành công vụ khi thực hiện nhiệm vụ được trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để thi hành nhiệm vụ. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm trang bị đầy đủ vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện nghiệp vụ theo quy định của pháp luật cho người thi hành công vụ để thi hành nhiệm vụ.
Điều 14. Trách nhiệm kiểm tra, xử lý vi phạm, tiêu cực đối với người thi hành công vụ
Các cơ quan, tổ chức quản lý người thi hành công vụ có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi tham nhũng, tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật khác trong lực lượng thực thi công vụ. Thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh việc thực thi nhiệm vụ và chấp hành pháp luật của người thi hành công vụ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ.
Điều 15. Thông báo về địa phương, nơi cư trú đối với người có hành vi chống người thi hành công vụ
1. Sau khi xử lý vi phạm đối với người có hành vi chống người thi hành công vụ, cơ quan đã ra quyết định xử lý vi phạm có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản về danh tính, hành vi vi phạm, hình thức, biện pháp xử lý vi phạm đối với người có hành vi chống người thi hành công vụ về chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người vi phạm học tập, lao động, làm việc để có biện pháp phòng ngừa, quản lý, giáo dục.
2. Đối với các vụ án chống người thi hành công vụ, đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền tăng cường tổ chức xét xử lưu động để góp phần phòng ngừa, giáo dục chung.

Chương III
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, XỬ LÝ
HÀNH VI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Điều 16. Các biện pháp ngăn chặn hành vi chống người thi hành công vụ
1. Giải thích cho người có hành vi vi phạm biết rõ là họ đã vi phạm pháp luật và yêu cầu chấm dứt ngay hành vi vi phạm đó. Yêu cầu người vi phạm xuất trình giấy tờ tùy thân để kiểm tra.
2. Cưỡng chế người có hành vi vi phạm pháp luật buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ;
 3. Bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ; khám người, phương tiện vi phạm; tước bỏ, vô hiệu hóa vũ khí, công cụ hỗ trợ, vật liệu nổ hoặc hung khí (nếu có).
Trình tự, thủ tục bắt giữ, khám xét người có hành vi chống người thi hành công vụ, khám phương tiện vi phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
4. Trường hợp tụ tập đám đông chống người thi hành công vụ thì tiến hành các biện pháp nhằm giải tán đám đông; ngăn chặn, bao vây, khống chế, cô lập đối tượng cầm đầu, tổ chức, xúi giục.
5. Đưa người có hành vi chống người thi hành công vụ về trụ sở cơ quan Công an, trụ sở cơ quan có thẩm quyền xử lý hoặc trụ sở Ủy ban nhân dân nơi gần nhất để giải quyết. Trong trường hợp người có hành vi vi phạm cố tình chống đối, không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ thì được sử dụng công cụ hỗ trợ, phương tiện được trang bị để buộc người vi phạm phải chấp hành.
6. Lập biên bản về hành vi chống người thi hành công vụ để làm căn cứ cho việc xử lý theo quy định của pháp luật;
7. Quyết định theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định tạm giữ người, phương tiện vi phạm theo quy định của pháp luật.
Điều 17. Cưỡng chế người có hành vi vi phạm pháp luật buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, chấp hành hiệu lệnh của người thi hành công vụ
Trong trường hợp người có hành vi vi phạm không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm sau khi đã được giải thích, tuyên truyền, thì người thi hành công vụ được phép sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật được trang bị để buộc người có hành vi vi phạm pháp luật chấm dứt ngay hành vi vi phạm và tuân thủ hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ.
Điều 18. Xử lý tình huống khi có hành vi chống người thi hành công vụ
1. Trường hợp hành vi chống người thi hành công vụ có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng thì người thi hành công vụ được sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ và các phương tiện kỹ thuật được trang bị để khống chế, bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ.
2. Trường hợp có căn cứ thực tế để cho rằng hành vi chống người thi hành công vụ sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người thi hành công vụ hoặc của người khác hoặc có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì người thi hành công vụ được sử dụng công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật hoặc nổ súng trực tiếp vào người và phương tiện vi phạm để phòng vệ, tấn công, vô hiệu hóa hành vi chống người thi hành công vụ, kịp thời ngăn chặn hậu quả xảy ra và bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ.
 Điều 19. Phối hợp, hỗ trợ trong xử lý hành vi chống người thi hành công vụ
            1. Trong trường hợp hành vi chống người thi hành công vụ vượt quá khả năng giải quyết hoặc trường hợp có nhiều người thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ, thì người thi hành công vụ có thể yêu cầu các lực lượng vũ trang nhân dân nơi gần nhất hoặc các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phối hợp, hỗ trợ để ngăn chặn, xử lý kịp thời.
            2. Cơ quan Công an, các lực lượng thuộc Quân đội nhân dân nơi gần nhất và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm phối hợp ngay với người thi hành công vụ để kịp thời ngăn chặn, xử lý người có hành vi chống người thi hành công vụ.
            Điều 20. Xử lý người có hành vi chống người thi hành công vụ
Việc xử lý người có hành vi chống người thi hành công vụ được thực hiện theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Chương IV
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG PHÒNG NGỪA, NGĂN CHẶN VÀ XỬ LÝ HÀNH VI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Điều 21. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
2. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ theo quy định tại Nghị định này và quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan.
3. Tổ chức chỉ đạo việc điều tra, xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ theo quy định của pháp luật.
4. Chỉ đạo Công an các cấp và các đơn vị thuộc quyền đẩy mạnh công tác tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm đến cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân và nhân dân.
5. Chỉ đạo Công an các cấp xây dựng và thực hiện nghiêm phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
6. Tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, võ thuật, kỹ năng quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sỹ và các lực lượng có liên quan thuộc quyền quản lý.
7. Trang bị đủ vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ để thi hành công vụ.
Điều 22. Trách nhiệm của Bộ          Quốc phòng
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh vực quốc phòng.
2. Tổ chức chỉ đạo việc điều tra, xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc quyền xây dựng và thực hiện nghiêm phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh vực quốc phòng.
4. Tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, võ thuật, kỹ năng quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sỹ và các lực lượng có liên quan trong Quân đội nhân dân.
5. Hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong Quân đội có kế hoạch phối hợp với chính quyền địa phương nơi đóng quân tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
6. Trang bị đủ vũ khí, phương tiện, công cụ hỗ trợ phương tiện nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ để thi hành công vụ.
Điều 23. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong các lĩnh vực công tác thuộc quyền quản lý.
2. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện các phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ; tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho lực lượng chức năng thuộc quyền quản lý.
3. Trang bị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền trang bị đủ vũ khí, phương tiện, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật cho các lực lượng chức năng để thi hành công vụ.
4. Bảo đảm kinh phí phục vụ công tác phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ cho các cơ quan, tổ chức, địa phương theo quy định của pháp luật.
Điều 24. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong công tác thi hành án dân sự và các lĩnh vực công tác khác thuộc quyền quản lý.
2. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.
3. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện các phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ; tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho lực lượng chấp hành viên và các lực lượng chức năng khác thuộc quyền quản lý.
4. Trang bị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền trang bị đủ công cụ hỗ trợ, phương tiện nghiệp vụ theo quy định của pháp luật cho các lực lượng chức năng để thi hành công vụ.
Điều 25. Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh kiểm lâm và các lĩnh vực khác thuộc quyền quản lý.
2. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện các phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ; tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho lực lượng chức năng thuộc quyền quản lý.
3. Trang bị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền trang bị đủ vũ khí, công cụ hỗ trợ phương tiện nghiệp vụ theo quy định của pháp luật cho các lực lượng chức năng để thi hành công vụ.
Điều 26. Trách nhiệm của Bộ Giao thông vận tải
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh vực bảo đảm trật tự an toàn giao thông thuộc quyền quản lý.
2. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện các phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ; tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho lực lượng thanh tra giao thông và các lực lượng chức năng khác thuộc quyền quản lý.
3. Trang bị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền trang bị đủ công cụ hỗ trợ, phương tiện nghiệp vụ theo quy định của pháp luật cho các lực lượng chức năng để thi hành công vụ.
Điều 27. Trách nhiệm của Bộ Công thương
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong công tác quản lý thị trường và các lĩnh vực công tác khác thuộc quyền quản lý.
2. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện các phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ; tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho lực lượng quản lý thị trường và các lực lượng chức năng khác thuộc quyền quản lý.
3. Trang bị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền trang bị đủ công cụ hỗ trợ, phương tiện nghiệp vụ theo quy định của pháp luật cho các lực lượng chức năng để thi hành công vụ.
Điều 28. Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp
Các bộ, cơ quan nganh bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm:
1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động cán bộ, công chức và nhân dân thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các quy định tại Nghị định này.
2. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.
3. Thực hiện thanh tra, kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ và quy định của pháp luật; phối hợp và hỗ trợ cơ quan, lực lượng thi hành công vụ trong việc phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.
4. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc quyền xây dựng phương án, quy chế, quy trình, kế hoạch và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ trong lĩnh vực, địa bàn thuộc quyền quản lý.
5. Trang bị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền trang bị đủ công cụ hỗ trợ, phương tiện nghiệp vụ theo quy định của pháp luật cho các lực lượng chức năng để thi hành công vụ.
6. Bảo đảm kinh phí cho công tác phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi chống người thi hành công vụ theo quy định của pháp luật.

Chương IV
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 29. Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày     tháng      năm 2013.
Điều 30. Trách nhiệm thi hành
1. Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành Nghị định này.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Toà án nhân dân tối cao;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Công báo;
- Lưu: VT, NC (10b).
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG




Nguyễn Tấn Dũng